×
×

Ngày ra khỏi tr:ại g;iam thành phố, tôi đã hiểu lý do vì sao mẹ chồng lại là người duy nhất mỗi tháng đều đặn mang cơm lên thăm tôi một lần

Tôi ra khỏi cổng trại giam vào một buổi sáng tháng Mười một lặng như bức ảnh cũ. Hai hàng bạch đàn đứng thẳng, lá khua vào nhau những tiếng xào xạc mỏng như tờ giấy. Người cán bộ làm thủ tục trả tự do đưa cho tôi túi đồ: một đôi dép nhựa, chiếc áo len màu ghi ngày vào đã ngả xám, sổ liên lạc với người thân. Mọi thứ nhẹ đến nỗi tôi cảm giác cánh tay mình đã quên cách nặng.

Bên kia đường, bà Hòa—mẹ chồng tôi—đứng tựa vào một cây bàng thấp, tay ôm một túi vải bạc màu. Bà mặc chiếc áo len đen đã xù lông, cổ quàng khăn xanh nước biển, mái tóc bạc dẹp gọn. Bà nhấc túi, đi về phía tôi, đôi dép cao su sột soạt.

Về thắp hương cho nó đi,” bà nói, giọng thấp. “Rồi mình hẵng tính.”

Đó là những lời đầu tiên bà nói sau ba năm tám tháng mười một ngày kể từ phiên tòa tuyên tôi mười hai năm vì “vô ý làm chết người”—chồng tôi, Quân.

Cả họ nhà chồng đã khinh bỉ tôi như một chiếc giẻ lau dính dầu. Bàn ăn ngày nhận án vắng hết người—họ bận tiệc tùng rượu phúng, nhưng vẫn kịp gửi mấy câu: “Cũng tại nó dữ tính”, “Nhà nghèo ham giàu”, “Ghế còn ấm mà dám hỗn”. Chỉ có bà Hòa, đúng mỗi tháng một lần, đi xe buýt chín chặng, mang cho tôi nồi canh mồng tơi hoặc túi quýt. Bà ngồi đối diện qua tấm kính, không hỏi “con có oan không”, không nói “mẹ tin con”, chỉ nhắc: “Đừng bỏ bữa. Đừng cắn chặt răng khi khóc, hại men răng.”

Tôi không biết phải đặt tên cho cái quan tâm đều đặn ấy là gì—tình thương hay chuộc lỗi—cho đến tận sáng nay.


Ngày Quân chết, trời đổ mưa từ giữa trưa, đến tối thì lạnh như đổ băng vào phổi. Tôi đang rửa bát thì điện thoại đổ chuông. Giọng ông tổ trưởng dân phố dồn dập: “Con về nhanh… Quân ngã cầu thang…” Khi tôi chạy về, cầu thang nhà sáu bậc loang vệt nước ngầu xà phòng, Quân nằm ở chân thang, thái dương trái đập vào mép bậc, máu thấm vào cái thảm chùi chân bông đỏ. Bà Hòa quỳ bên cạnh, tay run, vừa bấm số cấp cứu vừa chà chà khăn vào vết máu như lau một cái bát bị tràn canh.

Tôi còn nhớ như in lời khai hôm sau: “Vợ chồng mâu thuẫn, cãi nhau, xô xát”. Hàng xóm, những người chưa bao giờ chịu mở miệng nói “chào” khi tôi đi chợ, bỗng dưng nhớ vanh vách: “Nghe tiếng cãi vã”, “Nghe chén bát va”. Người quản lý tiệm cầm đồ ở đầu ngõ xác nhận Quân đang nợ một khoản, bị đòi riết. Một tờ giấy ủy quyền mua bán chiếc xe tay ga đứng tên tôi xuất hiện trên bàn điều tra. Tên tôi và chữ ký tôi nằm trơ trọi dưới con dấu đỏ. Tôi nhớ đã ký trong một buổi chiều quáng quàng đi làm về, Quân dúi tập giấy bảo “ký giùm cho kịp giờ công chứng”, nói đó là “giấy vay tạm”. Tôi không đọc, chỉ nhìn mặt chồng.

Phiên tòa xử chóng vánh như một nồi nước sôi đậy vung. Giám định tử thi ghi “va đập mạnh vào vùng thái dương trái, tụ máu nội sọ”. Luật sư do nhà chồng thuê ngồi khoanh tay. Bà Hòa không nhìn tôi—bà nhìn đôi dép tôi đi lúc ấy: đôi dép nhựa xám cũ. Tôi nghe tiếng búa gõ ba lần.

Tôi vào trại.

Những tháng đầu, tôi sống như người vừa bỏ sót một tiếng thở: lúc nào cũng hụt. Buổi tối, tôi nghe những người đàn bà chung buồng kể chuyện đời họ: mua bán người, đánh ghen, lừa đảo. Ai cũng có một câu “tại vì”. Tôi không có câu “tại vì” nào. Mỗi tháng, bà Hòa đến, đặt túi đồ lên khay, đôi mắt đen sẫm. Tôi hỏi một lần, với hết can đảm còn sót: “Mẹ tin con không?” Bà không trả lời. Bà rót nước, bảo: “Uống đi. Nước chanh. Cho dễ ngủ.”

Tôi hận bà. Hận cái im lặng vừa như tin vừa như không, vừa như dao, vừa như băng. Nhưng rồi hận cũng mệt. Tôi bắt đầu đan len—mấy cuộn len bà gửi: “Đan cái khăn quàng cổ đi. Mùa này lạnh.”

Cứ thế cho đến khi tôi được giảm án vì cải tạo tốt, ra trại trước hạn. Và bà đứng ở cổng, bảo: “Về thắp hương cho nó đi.”


Chúng tôi ngồi chung xe buýt, mặt kính lấm tấm mưa. Bà ôm túi vải trên đùi, ngón tay run nhẹ như dây đàn đã lâu không chỉnh. Tôi nhìn nghiêng, thấy một sợi chỉ trắng lạc giữa hàng lông mày đen—cái sợi chỉ mà trước đây tôi vẫn muốn gạt đi nhưng không bao giờ dám.

Xe quành vào đường mòn dẫn vào nghĩa trang. Mùi cỏ ẩm mấp mé ở miệng, giống mùi nhà giặt đồ của trại mỗi khi trời mưa. Mộ Quân nằm ở dãy cuối, lưng quay ra đồng. Bia xi măng lạnh, chữ khắc chân phương. Bông cúc trắng cắm nghiêng trong lọ, chắc ai vừa thay. Bà Hòa bảo tôi chờ, bà cúi xuống, bới cái lạt tre buộc nắp mộ. Tôi giật nảy:

Mẹ làm gì vậy ạ?”

Mở,” bà nói. “Mở cho mùi hương ra vào.”

Nắp mộ bật lên, rên một tiếng nhẹ như người già trở mình. Tôi chết lặng. Không có quan tài. Chỗ đáng lẽ có nắp gỗ trống trơn, chỉ đặt một phong bì nilon ép một mảnh giấy: “Biên nhận xét nghiệm ADN – hoán đổi mẫu – bảo quản 11/…/20…”

Tôi gục xuống, đầu gối chạm đất lạnh. Tiếng gió đi qua cây bạch đàn như tiếng ai đó cười khan trên cao.

Bà Hòa ngồi xổm, tháo khăn quàng, trải ra mép mộ, đặt phong bì nilon lên đó. Bà nói rất khẽ, như sợ làm vỡ một thứ mỏng:

Nó chưa chết, con à.”

Tôi nhìn lên, không nhận ra giọng mình khi nói: “Aichưa?”

Quân. Mẹdàn. Mẹ sai. Mẹ là người có tội.”

Từ cái mép vải voan sương mù ấy, sự thật tràn ra, không dừng được nữa.


Quân đánh bạc. Cả năm ấy, anh ra vào tiệm cầm đồ như đi chợ. Tôi biết loáng thoáng, nhưng tôi tin “anh chơi chút thôi”. Chút hóa ra là một đống. Đêm trước khi “ngã cầu thang”, anh nhận điện thoại. Mặt anh xanh như người vừa nuốt nước đá. Tôi hỏi, anh quát lên—lần hiếm hoi anh quát—bảo tôi “đừng xen vào” rồi đi tắm. Đến chỗ cầu thang, trơnbọt xà phòng.

Bà Hòa kể: “Người ta đến nhà lục. Mẹsợđi tù. Sợchết ngoài đồng. Mẹ nghe ông Thức—thằng chăn đám ma—nói nghĩa trangmột xác vô danh mới đưa vào, to nhỏ na ná. Mẹđổi. Phòng giám định… có người quen. Sai từ cái gật đầu đầu tiên.”

Mẹ dựng một đám tang gọn ghẽ. Em họ là bác sĩ giúp một cái giấy. Tiền lo hết. Mẹ nghĩ: “Giấu nó đi, chođi biệt vài năm, đợi lắng rồi về.” Nhưng công an điều tra vụ “ngã” kia. Mẹ cần một câu chuyện hợp lý. Người ta nhìn thấy vết máu ở thảm, nghe hàng xóm kể tiếng cãi. Mẹđẩy. Một cú đẩy. Vụng. Ác.

Bà dừng. Mắt bà nhìn vào lòng mộ trống như nhìn vào miệng giếng.

Mẹ nghĩ một lúc thôi,” bà nói. “Tòa xử nhanh. Mẹ tưởng con khỏe. Mẹ mang cơm mỗi tháng, coi như chuộc. Đêm không ngủ. Mẹ thấy về, đứng ở cửa, nói: ‘Mẹ ơi, mẹvợ con xuống hố rồi.’ Mẹ không chịu nổi nữa. Nên hôm nay đưa con ra đây. Mẹ lên công an ngay bây giờ.”

Tôi ngồi, tay bấu vào mép bê tông đến đau. Trước mặt tôi, một người đàn bà cầm cuốc đào lên chính cái hố bà đã lấp, trần thân mình ra với gió. Tôi đã nghĩ biết bao chữ để chửi bà trong đêm tối trại giam. Giờ những chữ đó rụng như mùa khô.

Tôi gằn giọng: “CònQuân ở đâu?”

lắc. “Trong Nam. Lẩn trong bến ghe. Mẹ không dám tới. gửi một lần tiền cho mẹ, bảođừng cho biết’. Mẹsợ.”

Tôi đứng dậy, đậy nắp mộ lại. Tiếng nắp chạm xi măng nghe cộc, dứt. Tôi nhìn bà: “Mẹ lên đi.”

gật, tay vuốt sọt tóc cho gọn, đứng lên, bụi đất rơi khỏi đầu gối bà như những hạt muối.


Chúng tôi đến công an phường ngay buổi trưa. Bà Hòa viết đơn. Tự thú. Hoán đổi xác, mua chuộc giám định, dựng hiện trường, đổ tội cho con dâu. Từng chữ bà viết run, nhưng đều. Cán bộ trực mắt tròn như cái bát úp ngược. Người điều tra viên cũ của vụ tôi đến, cầm đơn bằng hai ngón tay như cầm một con cá sống. Lấy lời khai. Đối chất. Niêm phong mảnh giấy ADN trong phong bì nilon.

Cuối chiều, trời sầm xuống, khoác áo lên, quay sang tôi:
Mẹ sợ con chết trong trại trước khi biết. Giờ biết rồi. Mẹ đi.”

Tôi không khóc. Không la. Chỉ nói: “Mẹ ơi.”

Tôi gọi bà là ‘mẹ’lần đầu tiên—trước khi họ khóa còng vào cổ tay bà. Bà niềm nở gật như vừa nhận một chén trà đã ấm đúng.

Dãy hành lang trụ sở công an mùi thuốc làomồ hôi. Đầu cầu thang có bóng cây đổ vào. đi. Tiếng dép cao su của bà bặt sau cánh cửa sắt.


Tin mộ trống loang nhanh hơn khói rơm. Họ hàng nhà chồng tới tấp, người gào, người la, người bảo “nó đóng kịch”, người chửi “đồ ác nữ”, rồi tự im khi nhìn thấy giấy biên bản niêm phong. Ông Thức—chăn đám ma—bị truy. Về sau, tôi nghe ông nói trong phòng hỏi: “Bà ấy quỳ xuống trước tôi. Tôilàm phước. Hóa ra tạo nghiệp.”

Vụ án được phục hồi theo trình tự tái thẩm. Công an vào Nam tìm Quân. Người ta bảo anh trốn ở các bãi bốc xếp, đổi tên, đổi số điện thoại như đổi áo. Có lần, họ lỡ một bước anh trốn qua mái tôn. Cuối cùng, một đêm mưa, anh bị túm ở phía sau kho hàng.

Ngày đối chất, tôi ngồi đối diện Quân sau tấm kính, trái tim tôi đập như người chạy đuakhông biết đích ở đâu. Anh gầy đi, tóc dài, cằm lún phún. Mắt anh chúi xuống. Ngón tay phải anh cầm điếu thuốc tưởng tượng, chà lên gối.

Nó…” anh thì thào, chỉ vào tôi. Một giọt nước mắt chảy ngược vào trong. “Anh…”—anh nuốt—“Anh là thằng hèn.”

Tôi không nói tha thứ. Không nói thù hận. Không nói vì sao. Chỉ hỏi: “Ngày đó cầu thang ướt là do ai?”

Anh.

Aigiấy bán xe của tôi?”

Anh bảo em ký. Anh nói xạo.”

Ai chạy đến tiệm cầm đồ xin thêm một tuần?”

Mẹ anh.”

Tôi hiểu. Mọi câu chuyện tội lỗi đều bắt đầu bằng những con chữ nho nhỏ: đợi, , gắng, che. Che lần một thành che lần hai. Rồi một ngườibà Hòađặt cả mạng lên bàn, bày thành đám tang.

Tòa hủy án tôi, đình chỉ với lý do “không cấu thành tội phạm”. Tôi không vui. Chỉ như người uống một cốc nước sau mười cây sốnước trôi vào, không kịp nhận vị. Vụ khác được mở—gian dối trong hoạt động tư pháp, xâm phạm thi thể, đánh bạcbà Hòa bị bắt tạm giam.

Ngày đọc lệnh, bà đứng thẳng, không dựa tường. Tôi nhìn , nhớ những túi quýt mùa thu, nồi canhmang lên trại, câuđừng cắn chặt răng khi khóc”. Tôi nghĩ: Có lẽmang cho tôi cơm không phải để chuộc lỗi; mang cơmkhông biết làm gì khácđócách duy nhất biết để nắm một đầu sợi dây không tuột.

Tôi xin phép vào trại giam thăm .


Trại của khác trại của tôi ba năm trước. Tường vàng chóe, mùi clo nồng hơn. Cửa sắt kêu két. Tôi ngồi trước tấm kính, ống nói điện thoại cũ đến mức nhựa sờn như da tay. vào, áo trại sọc xanh, tóc vẫn gọn. Mắttrũng sâu, nhưng đi vẫn vững—như lúcđi trên bờ ruộng ngày tôi về làm dâu, chân không bao giờ lún.

Chúng tôi nhìn nhau lâu. đặt bàn tay lên mặt bàn gỗ bệ, ngón tay nhăn như mạch nước. Tôi đặt tay mình lên đó, không chạm, chỉ ướm khoảng cách.

Con…” tôi mở miệng, tiếng khàncái khàn của bao đêm trại không dám khóc to. “Con đến thăm mẹ.”

khựng một cái nhỏ, như con cá ngoài rổ giật đuôi. Mắtđầy nước, không rơi. “,” bà nói. “Mẹ đây được. Đỡ sợ. Không còn đêm nào mở cửa thấy đứng trơ nữa. Mẹ chợp mắt rồi.”

Tôi kểnghe chuyện tôi xin việc ở xưởng may nhỏ, dì Bốn nhận cho khâu tay. Kể tiền nợ tôi đang trả dần. Kể gia đình họ im như sân nhà mưa xong. Kể —con em gái tôi—mua cho tôi một cái điện thoại cũ, bảo “chị tập chụp ảnh hoa đi cho đỡ buồn”. nghe, gật, miệng mấp máy như đếm.

Đến cuối, tôi lấy ra từ túi một cuộn len màu xanh nước biển—màu khăn của —và một cặp kim đan. “Con đan cái khăn,” tôi cười, “Chắc xong đến mùa gió nồm.”

không cười. nghiêng người, chạm trán vào kính, thở ra một vệt mờ. “Con đừng bỏ bữa,” nói như cũ. “Đừng cắn chặt răng khi khóc.”

Vâng, mẹ,” tôi đáp. Tôi gọi tròn vành hai chữ, trong cổ không còn vướng. nhắm mắt, hít vào một hơi dàihơi của người vừa đặt xuống một bao gạo nặng mười năm.

Chúng tôi ngồi như vậy đến hết giờ. Khi ra, mưa rơi lấm tấm. Sân trại mùi cỏ mới cắt. Tôi đi qua cổng, ngước nhìn biển sắt “Cải tạo tốt – Sống tốt”, thấy lòng mình bớt một tiếng gió.


Một thời gian sau, báo đăng bản án: Bà Hòa bảy nămxâm phạm thi thể, làm sai lệch hồ sơ, mua chuộc người thi hành công vụ. Quân hai nămđánh bạc, thêm mười tám thángtrốn tránh, cho hưởng án treo. Ông Thức ba năm. Em họ bác sĩ bị tước chứng chỉ.

Người hàng xóm trước kia đổ vôi trước cửa nhà tôi vì “trị tà” bỗng đổi giọng. Họ sang, đặt lên bàn tôi đĩa xôi vò, vừa ăn vừa nói: “Con người ai chả có lúc dại.” Tôi mỉm cười lịch sự. Quá khứcách biến những kẻ nói điều ác thành những người kể chuyện cũ như người ngoài.

Một buổi chiều, tôi đứng trước nhà, nhìn nắng đổ dọc con hẻm. Tiếng xe rác ngoài đầu ngõ kéo dài một bản nhạc sắt chói. Quân đến. Anh đứng xa, hai tay đan vào nhau. Tôi chờ câu xin lỗi. Anh không nói. Anh cúi rất thấp. Rồi đi.

Tôi không gọi. Chúng tôi đã đi hết chỗ để trong đời nhau rồi. Phần còn lạivới tôi—là thăm mẹ.


Mỗi tháng, tôi vào trại một lần. bắt đầu viết. Những tờ giấy mỏng, chữ nghiêng nghiêng: “Ngày… tháng… hôm nay trời nắng. Trong buồng có chị Ba bị đau răng. Mẹ chia phần cháo cho chị.” rồi “Mai nhà mình lên mả ông cố, con mang cúc trắng cho mẹ nhé.”

lần, viết: “Mẹ nghĩ hoài: sao ngày đó mẹ không dắt con bỏ đi? Mẹ sợ dòng, sợ họ, sợ người ta xì xào. Mẹ đặt tên cho sợ là ‘giữ danh’. Cái tên hay quá nên mẹ nuôi nó. Nó lớn hơn con.”

Tôi đọc, gấp lại, cất trong hộp bìa cứng. Mỗi bức thưmột viên gạch lót lại lối vào nhà tôi—lối từng bị bít bằng bùn.

Tết, trại cho người nhà vào gửi quà. Tôi mang khăn len đan xong. Màu xanh nước biển. quàng vào cổ, sờ mép khăn như sờ tóc em bé. cười rất nhẹ. Nụ cười ấy không còn cái căng kiêu hãnh ngày xưachỉnếp nhăn tỏa ra từ khóe mắt, ấm như vùng nắng bất ngờ trên chiếu trải sân.

Trước khi về, bảo: “Khi ra, mẹ muốn lại ra mộ nó. Không phải mộ. Chỗ mộ. Cắm cho chị dâu con bông cúc trắng. Mẹ nợ chị ấy một nén hương.”

Vâng, mẹ,” tôi nói.


Một buổi chiều tháng Ba, cúc trắng ngoài chợ rộ lên. Tôi cầm hai bó, đi ra nghĩa trang một mình. Gió thổi lai tấm vải đỏ người ta phơibờ ruộng, lỡm bỡm như sóng.

Đến mộ, tôi lại bật nắp mộ ra. Bên dưới vẫn trống. Tôi thả vào đó một tờ giấy nhỏ: “Mẹ, con về thăm. Con gọi mẹ. Nghe không?” Đậy nắp. Cắm cúc. Lùi một bước. Chắp tay.

Bầu trời không trả lời. Nhưngmột con chim sẻ đậu lên bia, nghiêng đầu nhìn tôi, hót một tiếng rất nhỏ. Tôi cười. Trong lòng, một cái gút lâu năm tuột ra như sợi chỉ.


Nếu ai hỏi tôiKết truyện này ở đâu?”, tôi nói: kết khôngmộ trống, khônggiấy ADN, khônglúcđeo còng. Kếtphòng thăm gặp, khi tôi nói hai chữ ‘mẹ ơi’lần đầu tiên sau mười năm—và gật bằng cái gật của người không còn giữ mình lại để được đúng nữa.

Còn tôi—đứa con dâu từng mang án, từng bị họ hàng khạc nhổ bằng những lờihọc lại cách đứng giữa ban ngày. Không trốn bóng ai. Không đòi án ai. Chỉ đặt lại tên cho mỗi việc: đósai, đâyđau, kiachuộc, hôm naythăm mẹ.

Tôi gấp khăn cho gọn, bọc lại bằng tờ báo tháng trước, xếp vào giỏ. Ngày mai, tôi lại đi xe buýt chín chặng. Ngày mai, qua tấm kính, sẽ hỏi: “Conăn sáng không?” Tôi sẽ đáp: “Con ăn rồi, mẹ.”

tôi tintin một cách bình dị—rằng mỗi lần gọi như vậy, mười năm trước lại dịch một li ra sau, nhường chỗ cho một mảnh ban ngày mới xanh, giống màu khăn len trong cổ bà.

Related Posts

Our Privacy policy

https://dongnai24.com - © 2025 News