×
×

Mang thai 7 tháng bị đuổi ra ngoài trời mưa, tôi im lặng rời đi – sáng hôm sau xuất hiện với thông tin khiến họ khóc thét

Tôi không ngờ mưa đêm lại có tiếng. Không phải tiếng rào rào như người ta vẫn nói trên phim, mà là một tầng tiếng mỏng như tấm khăn ướt, phủ lên da, lên mi mắt. Khi chiếc khóa cổng bật “tách”, tiếng mưa bỗng dày như người ta tăng volume. Tôi đứng ngoài hiên, tay ôm bụng bầu bảy tháng, cơn gò Braxton Hicks thi thoảng nhói lên như con cá rô quẫy trong chậu, và nhìn qua song sắt thấy ánh đèn phòng khách in lên bức tường vôi.

“Con lỡ lời với chị Thắm thôi, mẹ đừng giận,” tôi nói, giọng mình mang cái run của mưa. “Mẹ cho con vào, con ngồi ở bậc thềm cũng được.”

Bên trong, bà Hảo – mẹ chồng tôi – không trả lời ngay. Chỉ có tiếng dép lê qua lại, tiếng người nhà nói xì xào. Tôi nghe cả tiếng chồng mình, Hùng, nhỏ như lạc vào một tầng mưa khác: “Mẹ ơi… mở cho vợ con vào đi.”

“Cái vía nó nặng, mày không biết đâu,” bà Hảo nói, giọng đanh như mép thớt. “Từ hôm nó về, nhà mình xui liên tiếp. Cô Thắm đi xem, thầy bảo tối nay phạm giờ xấu, ai mệnh âm mà bước qua cửa thì vận hạn trói cả nhà. Đợi qua giờ Dần.”

Tôi cười khẽ, thứ cười chỉ tỏa ra hơi lạnh. “Con người chứ đâu phải quỷ mà sợ mệnh âm, mẹ.”

“Cãi!” tiếng bà đanh lại. Tiếng chốt then dằn mạnh, như đóng vào gió.

Tôi thụt lùi một bước, lưng chạm cột hiên. Hàng xóm phía đối diện hé cửa, chị bán bún đậu ngó ra, ánh mắt chảy xuống như một sợi mắm đậm. Trời tháng Bảy đổ nước. Áo mưa tôi mặc giờ chỉ là một tấm nylon dán vào bụng như da thứ hai. Tôi nhớ lời mẹ ruột: “Đi lấy chồng, con đừng để ai gọi tên thay con.” Lúc ấy, tôi tưởng mẹ dặn chuyện họ hàng; hóa ra là dặn chuyện một cái cổng.

Tôi ngồi xuống bậc, co chân lại, ôm bụng. Cánh cửa sắt có khe, tôi nhìn qua khe thấy cái bóng mập của cô Thắm đi qua đi lại. “Cho nó thử,” cô nói vọng ra, cái giọng có thứ dầu mỡ của người đã quen bếp núc nhưng không chịu rửa tay khi ra phòng khách. “Đàn bà nhà mình ai chả từng đứng ngoài hiên một lần. Ngày xưa, tôi còn đứng đến sáng.”

Ở trong, chồng tôi chắc đang cúi đầu. Cái dáng cao mà hay co vai của anh mỗi khi giữa mẹ và vợ là cái cách một người dệt chiếc lưới lành lặn bằng sợi chỉ yếu. Tôi không muốn ghét. Tôi chỉ muốn đẻ yên.

Cơn gió tạt chéo. Nước mưa gom lại chảy dọc gáy. Con trong bụng đạp một cái như cái gõ của người gõ thau tìm thứ nước trong. Tôi gõ theo lên cánh cổng, ba tiếng. “Mẹ, con xin. Con đứng đây thêm lát nữa con lạnh lắm. Con… con sợ.”

Bên trong im. Một hồi rất lâu sau, có tiếng bà Hảo, hạ thấp giọng như nói với đồ vật: “Đã bảo tránh giờ xấu. Con dâu biết nghe lời hay không là ở bữa nay. Thêm tiếng nữa, hết.”

Tiếng nữa. Mưa còn đó. Tôi ngồi, đến khi không còn phân biệt được nước chảy trên mặt là mưa hay nước mắt. Tôi không nghe tiếng kêu cửa của mình nữa. Có lẽ tôi cũng thôi gõ. Người ta có một ngưỡng nước, qua đó, thứ chảy từ mắt chỉ là thói quen của tuyến lệ.

Gần nửa đêm, tôi lặng lẽ đứng dậy. Tiếng xương hông tôi nhắc nhở bằng một tiếng “cốc” khô. Tôi chạm vào bụng – cục nhỏ trong ấy di chuyển, không giận, cũng không tha thứ, chỉ là sinh vật đang lớn. Tôi kéo mũ áo mưa lên, rẽ mưa đi về phía đường lớn.


Con đường từ nhà chồng ra quốc lộ như một sợi chỉ ướt. Ở cuối hẻm, nhà ông Sùng có chiếc camera rẻ tiền lắp lệch, tôi đi ngang nghe tiếng “tách tách” như tiếng dế giả. Tôi không gọi taxi được – mưa làm sóng yếu; tôi vẫy đại một anh xe ôm đội mũ lưỡi trai.

“Lên đâu em?” anh hỏi.

“Tới phòng khám Hạc ở đầu phố,” tôi nói. “Chị Hạc làm sản khoa.”

Anh ngoái nhìn bụng tôi, gật: “Đi ngay.”

Phòng khám bật đèn khi xe ôm vừa tắt máy. Cô Hạc – bác sĩ cùng quê, vẫn gọi tôi bằng “em”: “Vào nhanh. Lạnh thế này co tử cung là mệt.” Bàn tay cô ấm như cái túi chườm đặt lên bụng. Máy doppler phát ra tiếng thình thịch nhanh của trái tim con tôi. “Ổn,” cô nói. “Nhưng đêm nay ở lại đây. Sáng mai hẵng về.”

Tôi nằm xuống giường, mùi cồn sát khuẩn ấm lên khoang mũi. Điện thoại rung: tin nhắn của Hùng. “Em đâu rồi?” Tôi nhìn màn hình một lúc rất lâu. Cuối cùng, tôi nhắn: “Ở chỗ an toàn. Sáng mai em về.” Chấm xanh tắt ngúm.

Cô Hạc rót cho tôi cốc gừng mật ong. “Em có biết nhà chồng em làm khó em đâu phải vì cái mệnh với vía đâu.” Cô nói khẽ. “Trưa nay có người đem bì thư nâu tới phòng khám nhờ chuyển cho em, tôi chưa kịp. Là ông Quang – bạn thân của bố chồng em. Ông ấy dặn: ‘Khi con bé bị đẩy ra ngoài cửa, đưa nó xem bì thư này’.”

Tôi ngồi bật dậy. “Ông Quang… là người cầm di chúc năm xưa?”

Cô gật. Cái tên “di chúc” như viên đá rơi xuống mặt nước đọng. Tôi đã nghe về nó – một lần, rất lâu trước, khi bố chồng tôi còn sống. Ông là người ít nói, thích trồng quất và cắm nhành bưởi già vào bình men hoa lam. Ông từng nhìn tôi rất lâu vào một buổi chiều nắng đọng trên mái tôn, và bảo: “Trong tủ thờ chùa Phổ Minh có một bì thư niêm sáp. Lúc nào con còn gì muốn hỏi mà không ai cho con câu trả lời, con đến đó lấy.” Tôi tưởng ông nói chuyện kinh kệ. Hóa ra không phải.

Cô Hạc lấy trong ngăn kéo ra bì thư nâu dày, niêm sáp đỏ, dấu vân lăn của ai đã từng nghĩ lâu về một đường đi. Tôi cầm, tay run hơn lúc nãy nhiều. Trên niêm sáp có khắc chữ “P.M.

“Tôi không rõ trong ấy là gì,” cô Hạc nói. “Ông Quang chỉ dặn: đừng để đến tay ai khác.”

Đêm ấy, tôi ngủ rất ít. Ở ngoài trời, mưa thôi hối hả, chuyển sang kiểu rơi lác đác như người lớn tuổi nói chuyện. Con tôi đạp thêm hai lần. Tôi đặt bì thư dưới gối, cảm giác nó nóng lên theo nhiệt của người.


Sáng, tôi đặt bì thư lên bàn thờ phòng khám, chắp tay. Rồi tôi gọi một chiếc xe bảy chỗ. “Đến chùa Phổ Minh,” tôi bảo. “Rồi ghé nhà họ Hùng ở ngõ Cát Tường.”

Sư cụ ở chùa ngẩng lên nhìn bì thư, khẽ mỉm cười. “Đến tay rồi.” Sư cụ đưa tôi một chìa khóa nhỏ, màu đồng sẫm. “Tủ gỗ mít bên gian trái, ngăn có chữ ‘hạc’, mở ra.” Tôi mở – trong ngăn là một cuốn sổ bìa xanh rêu, chữ của bố chồng tôi, ngay hàng thẳng lối đến mức tôi thấy mắc cỡ cho nét chữ bay chim của mình. Có một tờ giấy gấp tư kẹp ở giữa, dấu công chứng cũ. Tôi đọc. Tim tôi như đổi vị trí, lên tận cổ.

Tôi gọi cho ông Quang. “Cháu đọc rồi.” Ông chỉ nói: “Đủ can đảm chưa?” Tôi đáp: “Rồi.” Ông bảo: “Gặp nhau ở cổng nhà bên nhà cháu.” Tôi gật dù biết ông không thấy.


Nhà chồng tôi sáng ấy có khách. Tôi thấy mấy người họ nội dự đám giỗ sớm, mâm bày ngoài hiên. Trên bàn thờ vẫn bức ảnh đen trắng của bố chồng tôi, ông đứng hơi nghiêng, mắt nhìn qua người chụp như đang muốn nói điều gì mà biết sẽ không ai nghe nếu nói to.

Tôi đứng ngoài cổng – cái cổng tối qua đã đóng tôi lại một tiếng như nắp hộp. “Chào mẹ,” tôi nói, khi bà Hảo bước ra.

Bà nhìn tôi từ chân lên đến đầu, mắt ghé qua bụng tôi. “Qua giờ xấu rồi,” bà nói. “Vào nhà đi.”

Tôi lắc. “Hôm qua, mẹ để con ngoài cửa cả đêm. Sáng nay, con đứng ngoài cửa nói chuyện với mẹ cho công bằng.”

Mọi người trong sân quay ra. Cô Thắm nhếch môi. “Được mà. Đứng ngoài cho mát.”

Tôi hít sâu. “Con về nói ba điều. Một là về đứa bé. Hai là về bữa qua. Ba là về căn nhà này.”

Bà Hảo cười khẩy. “Đứa bé là chuyện của mày, bữa qua là chuyện phép nhà, căn nhà này là chuyện ông bà để lại.” Bà nói trôi chảy như người ta đọc một bài thuộc. “Nói nhanh.”

“Vậy con nói điều ba trước,” tôi đáp, giọng đều. Tôi rút từ túi tài liệu tờ giấy có dấu công chứng cũ. “Đây là di chúc bố để ở chùa Phổ Minh, có chữ ký ông và người làm chứng là ông Đỗ Quang đây.” Tôi quay người, ông Quang đã đứng sau lưng tôi, tay chắp hờ. “Trong đó ghi rõ: toàn bộ căn nhà và phần cổ phần trong công ty Hoài Mộc của ông để lại cho đứa cháu đầu tiên của ông, không phân biệt trai gái, và trong thời gian cháu chưa thành niên, mẹ của cháu là người giám hộ nắm quyền định đoạt. Nếu mẹ của cháu bị đối xử tệ bạc, quyền cư trú của những người còn lại sẽ bị xem xét lại theo ý nguyện phụ lục kèm theo. Bà Hảo được ở lại với tư cách ông bà, không có quyền trục xuất cô dâu đang mang bầu. Bất kỳ hành vi nào đe dọa an toàn thai phụ đều là trái với di chúc.”

Tiếng xì xào dừng đột ngột như ai rút phích cắm. Cô Thắm trợn tròn mắt. Bà Hảo bước lên một bước, tay run khe khẽ. “Di chúc… làm gì có. Ông ấy… chưa bao giờ…”

Ông Quang hắng giọng. “Tôi giữ bản sao. Bản gốc ở phòng công chứng Hải Đăng. Ông anh mất đi, tôi chờ ngày phù hợp mới trao. Hôm qua, phù hợp quá.”

Bà Hảo đổi sắc. Từ dưới nền, tiếng muỗi bay bỗng như tiếng kim rơi. “Tôi không biết… tôi… ông ấy không tin tôi sao?”

“Ông ấy rất thương chị,” ông Quang nói, giọng đổi mềm. “Nên mới để lại hàng chữ ở cuối. ‘Nếu sau này tôi không bên nhà, làm ơn nhắc người ở nhà rằng: cái nhà này có cửa mở ra chứ không phải cửa mở vào. Con dâu muốn bước ra khỏi nhà thì thằng con trai phải chạy theo.’

Hùng đưa tay chùi mặt. Tôi nhìn anh. Cái dáng co vai dường như duỗi ra một chút.

“Đấy là điều ba,” tôi nói khẽ. “Điều hai: bữa qua không phải là phép nhà, là phép người. Mẹ có quyền tin cái gì mẹ muốn. Nhưng mẹ không có quyền lấy cái mẹ tin để đặt lên bụng của con dâu. Con có đủ video từ nhà ông Sùng đầu ngõ kèm theo biên bản của bác sĩ Hạc về tình trạng hạ thân nhiệt nhẹ của con tối qua. Con có thể dùng nó để gửi đơn vì hành vi đe dọa đến an toàn thai phụ. Con sẽ không làm, nếu mẹ làm một việc duy nhất: xin lỗi. Không phải vì con, mà vì đứa bé.”

Bà Hảo nhìn tôi, mắt căng như mặt trống. Môi bà mấp máy. Cô Thắm định nói gì, cụ Thiều – bà cố – bỗng gõ gậy một cái. “Im.” Cụ đi từ trong ra, chậm mà thẳng, như một nét chữ quốc ngữ viết bằng bút lông. “Cái gì sai thì nhận. Đêm qua bà có nghe tiếng mưa. Tiếng mưa nói… giống tiếng mẹ mày khi xưa đứng ngoài hiên vì ông nội mày say rượu. Bà không muốn nghe lại.” Cụ quay sang bà Hảo. “Con làm, con xin.”

Lần đầu tiên, tôi thấy vai bà Hảo hạ xuống. Bà nuốt nước bọt như người nuốt thứ gì không trôi. “Mẹ xin lỗi,” bà nói, giọng cứng, rồi nhẹ đi. “Mẹ… xin lỗi con. Mẹ sợ… mẹ sợ người ta cười vào nhà này. Mẹ sợ thầy dọa. Mẹ… ngu.”

Tôi cúi đầu. “Con nhận.” Tôi cảm thấy cái gì trong ngực bớt co thắt. “Và điều một, là điều con muốn nói nhất: đứa bé trong bụng con… không phải một.”

Cả sân vỡ ra một tiếng “hả” không hẹn mà đồng thanh. Tôi giơ bức ảnh siêu âm mới sáng nay. Hai bọng nước đen, hai nhịp tim. “Đêm qua, ở chỗ bác sĩ Hạc, con đi siêu âm. Cô bảo con mang song thai. Con không dám nói, sợ mẹ bảo con nói cho hay. Con đem kết quả. Chúng là cháu đầu của bố. Là hai.”

Bà Hảo tái đi, rồi đỏ bừng. Cô Thắm bật lên: “Song thai thì… thì nhà mình có phúc! Nhưng… nhưng con dâu không được láo.” Cụ Thiều lại gõ gậy. “Con không cần đặt chữ vào miệng người khác.”

Hùng nhìn bức ảnh như người nhìn cánh cửa mở ra bờ sông. Anh bước đến gần, dừng lại trước cổng. “Em… cho anh ra ngoài cổng với.”

Tôi mở cửa. Cái tiếng “tách” của khóa hôm nay nhẹ như sợi chỉ đứt đúng lúc thắt. Hùng đứng dưới bầu trời sáng rau nhạt, mưa chỉ còn kẹo cọt như trẻ con mút kẹo. Anh ôm tôi, tay vòng qua cả hai sinh linh nhỏ xíu. “Anh xin lỗi,” anh nói vào tóc tôi. “Tối qua, anh… anh yếu. Từ mai, anh sẽ mạnh hơn.”

“Anh đừng hứa như người ta hứa lúc khấn,” tôi nói, khẽ, nhưng không còn gai.

Ông Quang ho một tiếng. “Còn việc nữa,” ông nói, giọng hành chính bỗng đổi sang thuần phác. “Phần cổ phần công ty Hoài Mộc. Theo di chúc, nó theo đứa cháu đầu. Mà cháu đầu bây giờ thành hai. Mẹ chúng nó – tức con – là giám hộ. Từ ngày hôm nay, con có quyền vào công ty, kiểm tra sổ sách, cử người đại diện quyền lợi. Tôi sẽ giúp con làm giấy tờ.”

Cô Thắm hắng giọng, mím môi: “Thế hóa ra… con dâu vào công ty quản cả cổ phần?” Ông Quang nhếch mép: “Không phải quản, là giám hộ. Cái từ nghe chướng tai thật, nhưng luật là vậy.”

Tôi gập tài liệu lại. “Mẹ,” tôi nói, “nhà này từ hôm nay là nhà của các con. Con không đá ai ra. Con chỉ cần nhà có cửa mở ra cho con. Con cần một phòng thoáng, sạch, dùng tạm làm phòng trẻ. Còn lại, mẹ cứ giữ nhà như trước. Phép mới chỉ có hai điều: không ai đứng ngoài cửa khi mưa, và đứa nào nói chuyện thì nói với người cần nghe.”

Cụ Thiều cười, cái cười không răng mà sáng. “Văn tế nhà ta từ nay bớt thơ, thêm lý,” cụ lặp lại câu tôi đã nghe ở một nơi khác. Tôi thấy ông nội đâu đó gật.

Bà Hảo quay đi, lau mắt. Khi quay lại, giọng bà khác đi – vẫn là người đàn bà ấy, nhưng mấy dây thừng trách nhiệm trói quanh bà được tháo một vòng. “Ở lại ăn bát cháo nóng,” bà nói. “Trời mưa… ăn cháo cho ấm bụng cả ba mẹ con.”


Tôi ngồi ăn bát cháo gà xé, mùi hành ngò ấm như tay ôm. Hùng ngồi cạnh, tay không rời bát, thỉnh thoảng liếc tôi như sợ tôi tan đi mất. Cô Thắm bưng mâm chén ra bàn, không nói thêm câu nào. Ông Quang và cụ Thiều trò chuyện về cây quất ngoài sân.

Nếu câu chuyện kết ở đó thì là một câu chuyện hiền. Nhưng cuộc đời vốn có tay nghề của nhà viết kịch.

Chiều ấy, tôi cùng ông Quang lên công ty Hoài Mộc. Phòng kế toán mùi giấy mực. Tôi thấy trong sổ có vài khoản “chi đối ngoại” lặp đi lặp lại tên một khách hàng giả – công ty Thiên Tinh. Ông Quang nhíu mày. “Hồi ông anh còn sống, ông phát hiện ra rồi. Định làm, nhưng ông đi nhanh.” Tôi gật – vậy ra “cháu đầu” không chỉ là chuyện nhà; là chuyện giữ cái xưởng làm mộc không trở thành sân sau của người ta.

Chúng tôi họp gấp ban giám đốc. Tôi ngồi ghế thấp, nghe. Khi tôi chuẩn bị đứng dậy ra về, điện thoại rung. Số lạ. Giọng đàn ông khàn: “Cô Vy đó không? Tôi… là thầy Lịch đây. Tôi… xin lỗi. Tối qua… bà Hảo bị ép đi xem. Tôi ăn nói bậy để người ta vừa lòng. Tôi… tôi bị nợ cái Thiên Tinh chúng nó cột. Xin cô… đừng để bà ấy mang tiếng.”

Tôi im. Tôi nhìn ra cửa sổ, trời đã thôi mưa, nhưng ngõ còn ướt như mắt người già sau buổi giỗ. “Thầy ơi,” tôi nói, “mai thầy sang nhà nói trước mặt cả nhà: thầy sai. Tôi tha.”

Ông “thầy” thở như vừa bơi từ bờ sông này sang bờ sông kia. “Cảm ơn… cảm ơn… tôi làm phúc trả nợ phúc.”

Tôi cúp máy, ngồi lại lâu hơn chút, nhìn cái xưởng mộc, nơi hồi mới cưới Hùng đưa tôi đến, bảo: “Gỗ thông phải phơi sáu tháng mới đóng tủ không cong.” Tôi chợt hiểu: có những thứ muốn thẳng, phải để thiên nhiên rút bớt nước trước đã.


Một tuần sau, nhà tôi làm bữa cơm nhỏ. Bà Hảo mời mấy người thân. Ông thầy đến, cúi đầu. “Tôi xin nói lại: cái gọi là giờ xấu là thứ tôi bịa,” ông nói, giọng run. “Tôi bị người ta dùng tiền chặn. Tôi xin lỗi.” Bà Hảo đứng lên, đỏ bừng. “Tôi cũng xin. Tôi… sợ người ta cười. Mà rốt cuộc người ta cười tôi nhiều hơn.”

Cụ Thiều cười. “Cười thì cười ít thôi, ăn đi.”

Sau bữa, bà Hảo vào phòng, mang ra một bì thư. “Cái này… ông ấy để lại, tôi không dám mở,” bà bảo, chỉ bức ảnh đen trắng trên tường. “Hôm nay… con mở.”

Tôi cầm. Bì thư mỏng, niêm sáp vỡ từ lâu. Bên trong là một tấm giấy nhỏ, chỉ có một dòng chữ nắn nót: “Nhà này, khi mưa, đừng đóng cửa.” Dưới có hình một đôi dép nhựa vẽ tay, và hai dấu chân bé xíu. Tôi cười, nước mắt như mưa chiều tháng Tư – không ào, chỉ ấm.

“Ông ấy biết chúng mày sẽ cãi nhau chuyện trời mưa,” cụ Thiều khẽ nói. “Ông nhà ta khôn, mà chết cũng khôn.”

Tối đó, tôi mở cửa sổ nhìn ra vườn. Cây khế già ướt ánh đèn, lá như những cái lưỡi nhỏ. Hùng đặt tay lên bụng tôi, nói: “Hai đứa, hả?” Tôi gật. “Tên gì?” Tôi bảo: “Một Minh, một An. Nhà này cần cả sáng lẫn yên.”

Hùng cười, cái cười làm mấy nếp nhăn tốt bụng quanh mắt hiện ra. “Hợp. Sáng nay, anh đã học cách mở cửa – tay nắm xoay về bên trái.”

“Sau này,” tôi nói, “đừng chờ tới mưa mới nhớ xoay.”


Nếu có ai hỏi tôi: “Đêm ấy, bị để ngoài cửa, vì sao sáng hôm sau chị lại quay về?” Tôi sẽ trả lời: vì có một lá thư niêm sáp cần tay tôi mở, vì có một bức tường cần ghi lại tên người đúng chỗ, vì có hai nhịp tim đập như mưa đầu mùa không chịu đứng ngoài.

Còn cái thông tin đã khiến cả nhà chồng tôi sốc nặng là gì? Không chỉ là chuyện di chúc đặt căn nhà và cổ phần về tay cháu đầu – mà là việc cháu đầu ấy hóa ra hai đứa, và người mẹ của chúng – kẻ từng bị đuổi giữa mưa – lại là giám hộ của cả căn nhà lẫn một thứ nề nếp mới: không ai đứng ngoài cửa khi mưa, và cửa nhà này mở ra trước khi mở vào.

Từ hôm đó, mỗi khi trời sụt sùi, bà Hảo đi qua đi lại kiểm tra các chốt cửa. Bà làm cái việc lạ lùng mà cả đời bà chưa làm: mở cửa trước khi mưa rơi. Và mỗi lần nghe tiếng khóa “tách”, tôi nhớ lại đêm ấy, nhớ mùi cồn phòng khám, nhớ tiếng tim con như tiếng nước chảy. Tôi hiểu: có những cánh cửa chỉ mở ra được khi ai đó đã đứng ngoài đủ lâu để biết lạnh là gì – và quay lại đủ sớm để những người trong nhà không phải học lạnh bằng cách tệ hơn.

Related Posts

Our Privacy policy

https://dongnai24.com - © 2025 News