Làng Đậu, huyện Bình Khê, vùng quê vốn yên bình, bỗng trở thành tâm điểm những lời đồn rợn ngợp sau cái chết của ông Hòa, trưởng họ Phạm.
Ông chết vào một buổi trưa tháng Chạp, khi đang ngồi vo gạo chuẩn bị bữa. Người nhà bảo ông chỉ kêu “Lạnh quá” rồi gục xuống.
Nhưng đáng sợ hơn, mới 2 ngày sau, người con trai trưởng của ông – anh Phạm Văn Lạc – cũng đột ngột qua đời.
Các cụ trong làng bắt đầu xì xào:
“Nhà ấy có trùng tang rồi… chết kiếp này bắt kiếp kia đấy.”
Ban đầu gia đình Lạc không tin. Nhưng đến khi xem lại lịch, họ tái mặt:
Ngày ông Hòa mất trùng đúng “ngày trùng phục” – ngày mà người xưa kiêng kị nhất.Trong đám tang ông Hòa, anh Lạc bưng mâm cơm cúng ra sân thì bỗng loạng choạng, đổ người xuống đất như bị kéo bởi một lực vô hình.
Hơi thở cứ yếu dần cho đến khi tim ngừng đập.
Vợ anh – chị Nhàn – gào khóc đến lạc giọng. Làng Đậu rúng động.
Một nhà, hai cái chết, chỉ cách nhau 48 tiếng.
Rồi cụ Tự – người giữ đền, nổi tiếng hiểu “âm dương” – lắc đầu:
“Không làm lễ giải trùng, sẽ còn nữa…”
Nhàn nghe xong mặt tái mét, nhưng cha chồng mất, chồng mất, nhà bấn loạn, không ai biết nên tin hay không.
Sau đám tang Lạc ba ngày, đêm đó chị Nhàn đang ôm hai đứa con ngủ thì nghe tiếng… ghế gỗ kéo kèn kẹt ngoài gian giữa.
Cứ tưởng mèo, chị bật đèn bước ra thì thấy:
Ba cái ghế đặt thành hình một vòng tròn, đúng hệt tư thế hôm ông Hòa ngồi vo gạo trước khi chết.
Chị run bắn người.
Hơn một tuần, các hiện tượng kỳ dị ngày càng nhiều:
Hũ gạo tự đổ mỗi lúc nửa đêm
Gió lạnh dù cửa đóng kín
Ảnh của hai cha con ông Hòa – Lạc trên bàn thờ bị lật úp
Nhàn rụng rời:
“Chẳng lẽ… là trùng tang thật?”
Trong nhà họ Phạm còn hai người con trai nữa: anh Phúc và anh Hoài.
Phúc – người con thứ – ở cách đó vài xóm, gia cảnh khá hơn. Nghe chuyện, anh về thắp hương cho cha anh trai, rồi bảo:
“Bớt nghĩ linh tinh đi, bệnh tim mà chết thôi. Em ở đây với chị vài hôm.”
Nhưng chỉ một đêm sau, khi Phúc đi tắm, Nhàn nghe một tiếng rầm!
Chạy vào thì thấy Phúc nằm bất tỉnh trong bồn, nước vẫn chảy.
Cứu vào viện thì bác sĩ nói: Ngừng tim đột ngột, không rõ nguyên nhân.
Lúc nhận xác Phúc, chị Nhàn lạnh cả sống lưng – trước ngực anh in rõ một vệt hằn tím như dấu bàn tay ai bóp lại.
Cả làng không ai dám đêm về nhà họ Phạm nữa.
Người con trai út – Hoài, 25 tuổi – từ thành phố về đưa tang anh trai thứ hai.
Dù cố tỏ ra mạnh mẽ, nhưng khi đêm xuống, Hoài ngồi thu mình ở gian giữa, nhìn lên bàn thờ mà tay run không kiểm soát.
Đêm đó, Nhàn thức trắng.
Khoảng 2 giờ sáng, chị nghe tiếng bước chân kéo lê ngoài sân.
Từ khe cửa sổ gian giữa, chị thấy bóng của một người đàn ông gầy, khom lưng, bước chậm rãi về phía căn bếp sau – nơi ông Hòa mất.
Gió thổi, mái lá lật phật, nhưng cái bóng kia thì không rung, không đổ, cứ đi thẳng như lướt trên đất.
Nhàn thét lên:
“Không phải người! Không phải người!”
Hoài bật dậy, lao ra sân. Nhưng chẳng có ai.
Chỉ có cái nồi vo gạo đặt đúng vị trí cha từng ngồi.
Sợ mất đứa con trai cuối cùng, gia đình quyết định đưa Hoài lên nhà cụ Tự – người giữ đền.
Cụ nhìn Hoài một lát rồi bảo:
“Âm khí bám vào nó rồi. Nếu không giải ngay… ba ngày nữa nó sẽ đi theo.”
Nhàn gục xuống khóc nức:
“Cụ cứu lấy con cháu với!”
Cụ Tự sai chuẩn bị gương đồng, roi dâu, một bộ áo quan nhỏ làm bằng giấy vàng và 3 tấm bùa trấn cửa.
Đêm làm lễ, gió nổi lên vù vù, mà sân nhà họ Phạm lại rét hơn cả ngoài đồng.
Khi cụ khấn đến đoạn gọi tên ông Hòa, ngọn nến tắt phụt, hai con gà cúng nhào ra đập cánh như bị bóp cổ.
Hoài đứng sau, mặt tái nhợt, miệng lắp bắp:
“Con… con thấy cha… đứng ngay kia kìa…”
Nhưng khi quay lại, chẳng ai thấy gì ngoài mùi tro lạnh đang bốc lên từ lư nhang.
Đúng lúc cụ Tự dứt tiếng, một tiếng nổ nhỏ vang lên, cái áo quan giấy bốc cháy dữ dội.
Cụ Tự gào:
“Nó chịu đi rồi! Đốt nhanh lên, đừng để nó kịp quay lại!”
Sau lễ đó, Hoài bớt xanh xao, ăn ngủ được, không còn bóng đen đeo bám.
Một tháng sau, khi Nhàn dọn tủ của cha chồng, chị phát hiện một cuốn sổ cũ giấu rất sâu dưới ngăn gỗ.
Trong đó là bí mật không ai biết:
Ông Hòa ngày trẻ từng làm cai thầu xây dựng.
Khi thi công cây cầu ở đầu làng, một tai nạn sập giàn giáo khiến hai người thợ rơi xuống sông chết oan.
Gia đình nạn nhân đến đòi bồi thường, ông sợ vỡ nợ nên không nhận trách nhiệm và dặn con trai né tránh.
Trong cuốn sổ, ông viết:
“Tôi biết hai người ấy chưa siêu thoát. Mười năm nay, cứ rét đậm là lại mơ thấy họ đứng cạnh giường. Nếu một ngày trời gọi tội, tôi e con cháu khó tránh…”
Nhàn rợn người.
Ông Hòa không bị trùng tang…
Mà là oan hồn kéo đi, dây domino ấy đổ sang chính các con trai ông – những người ông từng bắt che giấu sự thật.
Cả họ Phạm lập bàn thờ giải oan ngay bên bờ cầu năm xưa.
Từ đó, nhà họ không còn ai gặp chuyện kỳ dị nữa.
Nhưng mỗi khi đi ngang cầu vào những đêm đông sương buông, dân làng thề rằng vẫn nghe…
tiếng kéo ghế kèn kẹt, y hệt buổi trưa ông Hòa ra đi.