×
×

Mang thai với người cũ, tôi vội cưới anh khù khờ đầu xóm để h;ợp th;ức cái th;ai, nhưng khi lật chăn đêm tân hôn, tôi suýt ng:ất

Đêm ấy, gió bấc len vào khe cửa như một sợi chỉ lạnh khâu dọc sống lưng. Tôi ngồi trên giường cưới mới kê, tay chạm vào lớp ga trắng còn mùi hồ, mắt nhìn trân lên trần nhà nơi người ta dán bốn cái hoa dán đỏ chót thành hình chữ hỷ. Trong sân, tiếng cười nói đã rút đi, chỉ còn tiếng chén đĩa va nhau lẻ loi của mấy chị họ đang rửa ráy. Mẹ tôi vừa bước vào, cái áo dài nhung mầu mận sẫm đã được thay bằng chiếc áo bông quen thuộc; bà đặt một bát chè trôi nước trên bàn, bảo: “Con ăn miếng cho ấm bụng, qua hết đêm nay là yên.”

“Yên” – mẹ nói nhẹ như đặt một viên ngói lên mái. Mẹ đâu biết trong bụng tôi đang có một cái gì lạc chỗ, gõ thành từng nhịp sợ hãi.

Tôi mang thai được mười một tuần. Người đó – Lâm – “bạn trai cũ” của tôi, bảo chẳng liên quan, rồi tắt máy, rồi block. Cả một tháng sau, anh lại nhắn: “Anh xin lỗi, nhưng anh chưa sẵn sàng.” Nói như thể con người ta là một cái bưu kiện có thể gửi lùi lịch. Khi tôi nói với mẹ, mẹ lặng đi đúng một khắc rồi chắp hai tay: “Thôi. Nhà mình không có sức mà chọi. Con… ưng thằng Hiền đầu xóm đi.”

Hiền – trong mắt cả xóm – là “anh thanh niên khù khờ”: nói chậm, hay cười, đi đứng nhẹ như người sợ làm đứt ngọn cỏ. Người ta bảo đầu óc anh chậm chạp vì ngày nhỏ ngã ao, lên bờ sốt mê man. Tôi gặp anh vài lần ở chợ – anh kéo xe đẩy chuyển bao gạo giúp các bà, không lấy tiền; gặp ở bến xe – anh đội mưa đẩy cái xe chết máy giúp người lạ; gặp giữa trưa – anh gõ cửa đưa lại tờ tiền tôi đánh rơi. Tôi nhớ anh có đôi mắt hiền như đá cuội nằm dưới nước.

Ngày tôi nói “vâng”, mẹ nắm tay tôi mà run. Đám cưới làm gấp, gấp đến nỗi hoa cưới còn thơm mùi xăng xe chở tới. Cả họ nhà trai cười tươi như hoa vì “gả được con trai khuyết tật” (từ miệng ai đó cứ thế trượt ra). Nhà tôi cười phớ lớ vì chủ nợ rút hết đơn, anh trai được trả sòng phẳng còn có một khoản dư để sửa mái. Trên môi người ta là tiếng cười, trong tim người ta là toán cộng trừ. Chỉ có tôi ngồi trong buồng cô dâu mà khóc thầm, như cái vòi nước bị vặn khẽ, rỉ rả.

Tối. Hiền ngồi ở ghế gỗ, cách tôi một khoảng đúng lịch sự. Đèn neon chao nhẹ vì gió. Anh khẽ nói:
– Em… mệt thì ngủ trước. Anh nằm đất cũng được.

Giọng anh không khù khờ. Nó chậm, nhưng không dại. Tôi nhìn anh – cái áo sơ mi trắng tinh, cái quần tây cũ ủi ngay nếp. Đến lúc câu đầu tiên bật ra khỏi miệng tôi, nó lại gắt:
– Anh cần gì, nói đi. Anh muốn… gì, nói đi.

Hiền im. Rồi anh cúi xuống, kéo ở dưới mép chăn ra một phong bì cứng, đặt lên gối tôi.
– Đọc cái này trước khi nói.

Tôi mở phong bì, lòng bàn tay lạnh toát. “Giấy chứng nhận vô sinh nam – Nguyễn Văn Hiền” – mấy dòng chữ trơ bìa, con dấu đỏ chói, chẩn đoán: azoospermia. Ảnh chụp kết quả tinh dịch đồ, ngày tháng ba năm trước. Tôi nghe trong đầu mình có một vệt kêu như ai xé lụa.

Tôi ngẩng lên, môi khô:
– Đây là… thật?

Hiền gật.
– Thật. Anh… không có khả năng có con. Bác sĩ nói do biến chứng quai bị từ hồi mười bảy.

– Vậy… tại sao anh… – tôi nghẹn – …lại cưới?

Hiền nhìn thẳng vào tôi. Ánh mắt anh làm tôi sợ hơn cả con dấu đỏ.
– Vì anh biết hết.

Tôi đờ người.

– Anh biết em đang mang thai. Anh biết không phải của anh. Anh vẫn cưới – không phải để lừa em, mà để yên lòng mẹ. Mẹ anh mổ tim tháng sau, bà cứ sợ “chưa kịp thấy con dâu”. Với bà… tiếng trẻ con là âm thanh chặn cơn lo. Anh nghĩ… nếu em đồng ý, anh sẽ đứng tên cha cho đứa bé, nuôi nó như con. Còn nếu em không đồng ý, anh lui. Cái phong bì này… để em biết anh không gài bẫy.

Trong đầu tôi, một loạt câu hỏi đụng nhau chan chát như mâm bát vỡ: “Tại sao anh biết?” “Ai nói với anh?” “Tại sao anh… dám?” Lời ra khỏi miệng lại thành:
– Khắp làng… nói anh khù khờ.

Hiền cười. Nụ cười không chê ai, cũng không xin ai.
– Cái danh đó… là áo mưa anh mặc. Anh nói chậm, người ta đồn “chậm”. Anh không cãi. Nhiều thứ đỡ đi được lắm.

Tôi nhớ ra, hồi còn học cấp ba, có lần anh ôm đầu vì bị mấy thằng trai con nhà phú bẫy đánh; lần khác, ông chủ thu mua ve chai muốn bắt chẹt cân, anh cười rồi chở luôn cả cân đi kiểm tra lại, trả đúng. “Khù khờ” – hoá ra là cái lối đi an toàn của anh.

– Em… có quyền đi. Sáng mai. Anh sẵn giấy rồi. – Hiền lấy ra thêm một tờ giấy nữa, chữ nghiêng nghiêng – biên nhận: bao nhiêu vàng cưới, bao nhiêu “lại quả”, bao nhiêu chi phí, anh chịu hết. – Anh ngừng một nhịp – Nhưng nếu , chúng mình làm rõ vài điều, để khỏi nợ nhau.

Tôi ôm tờ giấy, thấy lòng bàn tay mình mướt mồ hôi.

– Điều một: Anh không chạm vào em khi em chưa sẵn.
– Điều hai: Em được tự do đi làm, đi học thêm – anh không nhốt vợ.
– Điều ba: Khi con ra đời, nếu em đổi ý, muốn tìm bố ruột cho nó, anh… sẽ lùi – miễn đừng để con bị giằng co.
– Điều bốn: Anh giữ bí mật về chuyện của em cho đến lúc em muốn nói. Còn nếu có ai “đến làm loạn”… – Hiền nhìn thẳng – anh đứng trước.

Tôi cười bật ra, nghe như tiếng bát uống nước chạm vào nhau khẽ khàng.
– Anh đứng trước kiểu khù khờ à?

– Kiểu có chứng cứ. – Hiền đẩy lại cho tôi cái phong bì vô sinh – Bằng chứng anh khôngcha sinh học của đứa bé. Nhưng nếu anh đứng tên cha pháp lý, thì ai đụng vào con, đụng vào anh.

Câu ấy lạ lùng thay, làm tôi… bớt sợ. Ở đâu đó trong lòng tôi, một cái cúc áo nảy ra, rơi vào tay. Tôi nói:
– Cho em… một trăm ngày. Rồi mình tính.

Hiền gật. Anh kéo cái nệm mỏng xuống sàn, nằm ngang, hai tay gối đầu. Tôi tắt đèn. Trong bóng tối, có tiếng anh nói rất khẽ:
Cảm ơn em đã nói thật.


Từ hôm sau, tôi mới gặp mẹ chồng – bà Tư, người đàn bà dáng nhỏ mà khoẻ, mắt tinh như đầu kim. Bà nhìn tôi, cười nơi khóe mắt:
– Con bé tỉnh ghê. Thằng Hiền chọn vợ được đó.

Tôi đỏ mặt. Mẹ chồng tôi không phải mẫu người xét nét. Bà dậy lúc bốn giờ, nấu nồi cháo lòng cho quán nhỏ dưới chợ, bảy giờ về quét sân, chăm giàn bầu. Bà thương Hiền như người ta thương nắng hiền cuối đông. Nghe nói bà “mổ tim tháng sau”, bà chỉ cười: “Mổ cho biết.”

Tôi vẫn đi làm ở xưởng cắt may. Buổi chiều Hiền đón – cái xe máy cũ, yên đã bọc mới. Anh chạy chầm chậm để bụng tôi không dằn, tay lái giữ đều như ai giữ chén nước đầy. Tối anh bào gỗ làm cái nôi, mùi gỗ mít vàng thơm cả nhà:
– Anh học đóng nôi trên mạng. – Anh nói, giọng như kể về một trò chơi.

Một lần, tôi thèm bún ốc, Hiền chở đi xa tận đầu huyện. Quán tối, con ốc to cỡ đầu ngón tay út, mùi mẻ dịu. Tôi ăn mà nước mắt cứ chảy ra. Hiền lấy khăn, đưa qua, không hỏi “sao khóc”. Có cái im lặng dễ chịu.

Rồi Lâm xuất hiện. Hôm ấy là chiều mưa, tôi vừa về đến đầu ngõ thì thấy hắn đứng dựa gốc xoan, áo sơ mi phẳng như cánh chuồn. Hắn cười:
– Bụng to ghê. Em đổ cho thằng… khờ đó hả?

Tôi lùi lại một bước. Hiền khi ấy vừa dựng xe, đặt rổ rau xuống, kéo tôi ra sau lưng.
– Anh là ai?

Bố của cái trong bụng kia. – Lâm nói bạt mạng – Và tôi đến giải quyết.

– Giải quyết gì? – Hiền hỏi, mắt chậm mà không chậm.

– Đây – Lâm rút điện thoại – Mấy tấm hình của cô ấy và tôi. Nếu không biết điều, tôi gửi cho mẹ anh, xưởng cô ấy làm, với cả làng.

Tim tôi tụt một nhịp. Bụng thắt lại. Hiền rút trong túi áo một cái máy ghi âm nhỏ, bật nút.
Nói lại câu vừa rồi, to hơn.

Lâm khựng một giây. Trời vẫn mưa ri rỉ.
– Anh là đồ khờ, đòi ghi âm tôi làm gì?

– Để nếu mai có cái gì đó rò rỉ, tôi biết đưa gì cho công an xã. – Hiền cười, nhẹ như chạm vào một chiếc lá – Còn bây giờ, mời anh… đi.

– Mày… – Lâm sáp vào. Bàn tay hắn chìa theo thói quen của kẻ quen giật. Tôi nhìn thấy Hiền quay người, chắn hẳn trước tôi như một cái cột gỗ chắc; rồi anh không đánh, chỉ lùi nửa bước để Lâm túm vào không khí, tự trượt, suýt ngã ngửa.

Đừng sờ vào vợ tôi. – Hiền nói, câu nào chắc câu nấy – Đứa bé này, nếu anh thương, thì biến mất khỏi đời nó. Còn nếu anh ghét, thì cứ thử, nhưng tôi có pháp luật. Anh hiểu chữ pháp luật không?

Lâm chửi một câu tục rồi bỏ đi, bước chân dậm xuống bùn để lại những vệt méo mó. Trời lúc ấy bỗng ngớt mưa, mùi đất thơm như ai mới cày xong thửa ruộng.

Tối ấy, Hiền đặt trước mặt tôi một cuốn sổ tay. Trang đầu viết chữ anh, đẹp bất ngờ: “Nhật ký của Ba Hiền – viết cho Con đọc khi biết chữ.” Dưới là mấy dòng: “Hôm nay ba học cách đổi tã. Lần đầu, ba quấn ngược, con đừng cười ba.” Tôi bật cười thành tiếng, mà cũng không ngăn nổi nước mắt.

– Em có… hạnh phúc không? – Hiền hỏi sau một lúc.

– Em… đỡ sợ. – Tôi đáp.

Đỡ sợ là bước đầu của hạnh phúc. – Anh nói.


Tháng thứ bảy, mẹ chồng tôi vào mổ tim. Phòng chờ lạnh, mùi cồn xộc lên cay mắt. Hiền đi qua đi lại, tay cầm túi đồ chuẩn bị sẵn như một người đã thuộc lòng mọi ngõ ngách của bệnh viện. Tôi nhìn anh ký giấy, trả lời bác sĩ, dặn dò y tá, bỗng hiểu rằng cái “khù khờ” kia chỉ là một lớp vỏ.

Bảy giờ tối, bác sĩ ra, tháo khẩu trang: “Ca mổ thành công.” Hiền dựa vào tường, thở phào, mắt ướt. Tôi chạm tay vào cánh tay anh. Anh không nói gì, chỉ cúi đầu xuống – trên đôi giày vải cũ, có một vệt máu của mẹ khô lại thành màu nâu sậm.

Đêm ấy, chúng tôi ngồi ngoài ghế đá, ăn bún gà trong hộp xốp. Hiền bỗng nói:
– Anh kể cho em nghe chuyện giấy vô sinh nhé.

– Em biết… do quai bị.

– Còn một phần nữa. – Anh nhìn lên trời, cười mỏng – Hồi anh mười bảy, anh với thằng bạn đi mò ốc, nó trượt chân, đầu đập vào đá; anh kéo nó lên bờ, ôm nó chạy một đoạn dài mới gặp người. Đêm đó, anh sốt. Sau vụ đó, anh là đàn ông… không đủ. – Anh ngừng – Hôm nhận giấy, anh nhẹ đi một nửa – nhẹ vì biết mình không làm hại ai nữa. Nửa còn lại thì nặng – nặng vì mẹ. Mẹ chỉ có mỗi anh.

Tôi nghe mà thấy trong cổ có một viên đá tròn. Tôi đưa tay ra, nắm lấy tay anh. Bàn tay anh thô, ấm, có những vết xước ngang dọc như bản đồ những đoạn đường đã đi.

– Anh… – tôi nói – Nếu mai này em không ở, anh… ghét em không?

Không. – Anh trả lời ngay, không cần nghĩ – Anh chỉ ghét cái gì làm em sợ thôi.


Ngày tôi đẻ là một đêm mưa giông. Trời dội nước xuống mái tôn rầm rầm như ai đổ sỏi. Những cơn gò ôm bụng tôi như những vòng tay thô bạo kéo xuống. Bà Tư ở bệnh viện được một tháng thì về nhà dưỡng, bà nhất định xin vào đứng bên cửa. Hiền đứng đầu giường, mồ hôi ướt tóc, tay nắm tay tôi:
Nhìn anh. Thở như anh.
– Em… sợ.
Anh đứng đây.

Đứa bé ra, khóc như một giọt mưa to rơi xuống mái ngói cũ. Tôi ngất đi. Khi tỉnh, thấy Hiền ngồi nép ở ghế, tay ôm một cái bọc con con – anh chưa dám bế lâu, sợ “nặng tay”. Bà Tư ngồi cạnh, mắt sáng như người vừa đặt được một hòn đá quý vào lòng bàn tay. Bà nhìn tôi, nói hai chữ: “Cảm ơn.”

Ba ngày sau, Hiền làm khai sinh. Ông cán bộ tư pháp xã nhìn giấy tờ, hỏi:
– Ghi tên cha là… Hiền?

Dạ. – Anh đáp, giọng bình thản.

– Ừm… Anh có muốn làm khai nhận cha con ngay bây giờ không?

Không cần. – Hiền cười – “Tên cha” ở đây đủ rồi.

Cái cách anh nói chữ đủ làm tôi thấy… đủ.

Chiều, mưa nghỉ. Chúng tôi bế con về nhà, đi ngang qua nhà Lâm. Cánh cửa khép, chiếc xe tay ga bóng loáng dựng dưới mái hiên. Không ai bước ra. Tôi nhìn thẳng phía trước.

Đêm, tôi mở ra cái phong bì vô sinh. Tôi gấp nó lại làm ba, lồng vào “Nhật ký của Ba Hiền”. Tôi viết thêm một dòng dưới trang anh viết dở: “Hôm nay con chào đời, Ba đứng ở đó. Con đừng bao giờ quên.”


Một trăm ngày trôi nhanh như người ta ngủ trưa trong mùa gió nồm: chợp mắt đã thấy chiều. Tôi nói với Hiền:
– Em .

Anh ngẩng lên, bờ môi giật giật như sợ mơ.
– Ở… với anh?

– Ở đây – với anh, với con, với mẹ. – Tôi nói chậm, rõ – Em chọn.

Hiền không ôm lấy tôi như trên phim. Anh chỉ bưng cái nôi lại gần giường, ngồi xuống, đặt tay lên cạnh nôi, thì thầm:
Cảm ơn vì cho anh được đứng trước.


Câu chuyện đáng lẽ có thể dừng ở đây – “kết thúc có hậu”, ai nghe cũng cười. Nhưng đời lại bật ra thêm một nốt. Hai năm sau, con trai tôi biết gọi “ba”, bà Tư trồng được cả một giàn bầu dài như những chiếc nậm bạc. Buổi chiều nọ, Hiền đi khám sức khoẻ tổng quát theo yêu cầu của công ty mới (anh chuyển qua xưởng mộc lớn trên thị xã). Anh về, đưa tôi một phong bì trắng.
– Em… đọc đi.

Tôi mở ra. “Kết quả tinh dịch đồ: có tinh trùng, mật độ thấp. Khuyến cáo theo dõi.” Bên cạnh là giấy siêu âm giãn tĩnh mạch thừng tinh đã mổ cách đây nửa năm – cái mổ mà anh giấu tôi, bảo đi “công tác”, hoá ra là đi điều trị một cơ hội mỏng như sợi tơ. Bác sĩ ghi tay: “Khả năng hồi phục có, cần thời gian.”

Tôi ngẩng lên, vừa cười vừa khóc:
– Anh… điên hả?

Hiền gãi đầu, vẫn cái cười hiền như đá cuội.
Phòng thủ thôi. – Anh nháy mắt – Sau này… nếu em muốn có thêm một đứa, anh không muốn em phải đi đâu xin nữa.

– Em… không cần. – Tôi nói, nghiêm giọng – Con này đã đủ. Nhưng nếu ơn trên cho thêm, em nhận.

Tối ấy, khi viết tiếp “Nhật ký của Ba Hiền”, tôi thêm vào dưới mấy dòng chữ anh khéo: “Có những điều không nằm trong kế hoạch: như lúc anh đưa tờ giấy vô sinh trong đêm tân hôn, như lúc kết quả mới này đặt vào tay em. Nhưng có một điều anh luôn làm được: đứng trước.”


Nếu ai kể lại câu chuyện này ngoài quán nước, chắc họ sẽ nói: “Vì có bầu với bạn trai cũ nhưng anh không nhận, cô ấy cưới anh thanh niên khù khờ đầu xóm để đổ vỏ. Đêm tân hôn, vạch chăn ra thấy giấy chứng nhận vô sinh của anh; hoá ra anh đã biết hết, chỉ cưới để yên lòng mẹ.”

Đúng. Nhưng… thiếu.

Thiếu những đêm mưa anh đứng trước khi có người đến làm loạn. Thiếu câu “Anh không ghét em, anh chỉ ghét điều làm em sợ.” Thiếu cái nôi gỗ mít thơm vàng, cái nhật ký của Ba có những lỗi chính tả đáng yêu, thiếu giọng cười của bà Tư sau ca mổ: “Mẹ còn sống để nghe cháu kêu bà.” Thiếu một trăm ngày chúng tôi đi cùng nhau như hai kẻ lạc đường học cách hỏi trạm gác. Và thiếu cả tờ giấy kết quả mới – đặt lên câu chuyện như một bông bồ công anh bay đúng lúc: bất ngờ mà nhẹ.

Ngày kỷ niệm cưới năm thứ ba, tôi pha hai tách trà, bưng ra hiên. Con trai chạy trước, ôm lấy chân ba, líu lo. Hiền bế con, quay vào:
Chụp cho ba tấm hình, nhiếp ảnh gia?

Tôi giơ máy – cái máy phim cũ Hiền mua cho tôi hôm sinh nhật, không phải máy của Lâm, mà là máy của hôm nay. Trong khung ngắm, hai người đàn ông hiện ra như hai nốt nhạc – một trầm, một cao. Tôi bấm. Tiếng “tách” nhỏ như đặt lại tên cho một câu chuyện: không phải “đổ vỏ”, mà là “được chọn”.

Tôi nhìn người chồng “khù khờ” của mình – lớp vỏ ấy giờ vẫn còn, nhưng tôi biết bên trong là một người đàn ông biết đứng ở nơi khó nhất. Tôi nghĩ về đêm tân hôn, về tờ giấy dưới chăn đã làm tôi kinh hoàng, rồi lại xoa dịu tôi bằng sự thật. Có những cái chăn trùm lên để che, nhưng cũng có những cái chăn nhắc ta lật lên để đặt lại ánh sáng.

Và tôi hiểu: đứa bé trong nhà sẽ lớn lên không cần biết về ai cho nó máu, nó chỉ cần biết về ai cho nó bờ vai. Còn người đàn ông từng “vô sinh” – anh có thể cả đời không sinh một giọt máu mình, nhưng sinh ra cho đời một thứ khác: sự yên lòng của mẹ, và sự vững lòng của một người đàn bà từng sợ bóng mình trên tường.

Related Posts

Our Privacy policy

https://dongnai24.com - © 2025 News