×
×

Mấy nhân viên cúi mặt. Tôi nhìn chiếc bình vỡ, rồi nhìn lên ông Hữu: – Tôi xin lỗi vì làm vỡ. Nhưng nó không đáng một tỷ.

Tôi chính thức về hưu ở tuổi 60. Không giống người khác, nghỉ hưu đối với tôi không có nghĩa là thong dong, là ngồi dưới bóng cây nhâm nhi chén trà chiều hay chơi cờ với bạn già. Tôi vẫn phải làm việc. Không phải vì tôi nghèo—tôi không giàu nhưng chẳng đến mức túng thiếu—mà vì tôi sợ một điều: ngồi yên là chết. Một người đàn ông mà không làm gì, không còn giá trị, thì còn gì để mà sống?

Tôi từng là kỹ thuật viên giám định chất liệu và tuổi đời các hiện vật cổ cho một đơn vị nghiên cứu. Cả đời chỉ nhìn, sờ, gõ và đọc chuyện của quá khứ qua từng mảnh gốm sứ, từng miếng đồng xanh. Công việc ấy tôi yêu như yêu hơi thở. Nhưng đại dịch đến, rồi cơ cấu nhân sự, rồi đủ thứ người trẻ vào, tôi tự rút lui trước khi bị đẩy đi. Thế nên tôi rảnh rang hơn người ta tưởng.

Con trai tôi nói:

– Cha nghỉ đi, dưỡng già đi. Bây giờ cha vẫn mạnh khỏe, chăm cây, trông cháu, bố trí cuộc sống…

Tôi gạt tay:

– Thế thì chán chết. Tao quen lao động rồi.

Vậy là tôi ra xin việc ở một cửa hàng đồ cổ. Công việc rất đơn giản: lau chùi, bưng bê hàng hóa, đôi lúc làm bảo vệ trông coi. Lương tháng chỉ hơn bốn triệu. Ông chủ cửa hàng tên Hữu, trạc bốn mươi, người nhỏ con, môi lúc nào cũng như mỉm cười nhưng trong mắt thì không hề có ý cười.

Cửa hàng của ông ta không lớn nhưng khá tiếng tăm ở khu phố. Trân bày đủ thứ: đỉnh đồng, tượng đá, tranh sơn mài, ấm chén sứ đời Thanh, men lam, men trắng… Mọi thứ bày biện vừa trang trọng vừa khoe mẽ.

Ngày đầu vào làm, tôi chỉ cười khi thấy bày biện thế thôi. Nhiều thứ giả lắm. Giả đến lộ liễu luôn ấy. Nhưng tôi không nói. Tôi đến đây để làm thuê chứ không phải để dạy người ta buôn bán.

Ông Hữu chẳng bao giờ tỏ ra kính trọng tôi. Thỉnh thoảng còn bảo:

– Chú cứ làm đi, đừng đụng vào đồ. Thứ này tiền tỷ đó.

Tôi gật đầu. Không phải vì sợ, mà vì tôi biết ông ta chẳng cần nghe lời khuyên từ một ông già hói đầu ăn mặc xuề xòa.

1

Một buổi sáng tháng Chín, khi tôi đang kê lại mấy cái tủ gỗ thì ông Hữu kéo về một chiếc bình cổ, gói trong tấm vải nhung màu đỏ thẫm. Ông ta gọi tôi:

– Này chú, phụ tôi đặt cái này lên kệ giữa. Nhẹ tay thôi. Không phải đồ thường đâu.

Tôi nhìn chiếc bình. Dáng cao, men trắng xanh, hoa văn rồng phượng. Vỏ ngoài loang màu ngọc. Ai nhìn cũng nghĩ là đồ đời Thanh, loại quý. Nhưng chỉ cần liếc qua, tôi biết ngay: cái men này chỉ là dạng men giả tuổi, dùng phương pháp đốt lùi tạo vết rạn. Tác nhân thời gian không thể đều tăm tắp như vậy được.

Tôi cầm cái bình lên. Không ngờ nó nhẹ hơn tưởng tượng. Người biết nghề chỉ cần nhấc lên là đoán được sơ sơ. Nhưng tôi đâu có quyền nói.

Ông Hữu đứng nhìn, tay khoanh trước ngực:

– Cẩn thận nhé. Hơn một tỷ đấy.

Tôi không đáp. Tôi đặt chiếc bình lên kệ, xoay nhẹ cho cân hướng. Đang lúc đứng dậy thì cô nhân viên phía sau gọi:

– Bác Toàn ơi, giúp em mang thùng hàng này ra sau!

Tôi quay người đi. Có lẽ vì bước vội, hoặc cái chân trái của tôi sau mấy năm bị thoái hóa gối đã không còn linh hoạt, tôi vấp phải chiếc hộp dụng cụ đặt dưới sàn.

Tôi nghe “xoảng!” một tiếng vang lên như xé toạc căn phòng.

Chiếc bình đó… đổ khỏi kệ và vỡ tan dưới nền gạch.

Mọi người đứng hình.

Tôi nhìn xuống: chiếc bình giờ chỉ còn là những mảnh vụn loang lổ men trắng xanh.

Đầu tiên là một khoảng lặng chết người. Rồi tiếp đến là tiếng hét:

– CÁI GÌ THẾ HẢ?

Ông Hữu lao tới, mặt đỏ bừng, tay run bần bật:

– Chú làm cái trò gì vậy? Chú phá hả?

Tôi đứng yên, không phản biện.

Ông ta quát:

– Trời đất! Cái bình này tôi mua gần một tỷ hai! Chú đền đi! Đồ vô dụng!

Cả cửa hàng im phăng phắc. Mấy nhân viên cúi mặt. Tôi nhìn chiếc bình vỡ, rồi nhìn lên ông Hữu:

– Tôi xin lỗi vì làm vỡ. Nhưng nó không đáng một tỷ.

– Chú định dạy khôn tôi hả? Chú biết gì về đồ cổ?

Tôi cười nhạt:

– Tôi làm nghề này mấy chục năm rồi.

Ông ta trợn mắt:

– Chú chỉ là thằng khuân vác!

Tôi im lặng.

Ông Hữu chỉ tay thẳng mặt tôi, giọng nói như muốn nuốt người:

– Chú nghỉ việc ngay hôm nay! Và chú phải đền chiếc bình này. Không trả thì tôi kiện!

Tôi nhìn ông ta một lúc lâu. Một lúc rất lâu. Rồi tôi nói một câu:

– Ngày mai cửa hàng này không còn là của anh nữa đâu.

Ông ta bật cười lớn:

– Chú tưởng chú là ai? Chủ tịch nước hả?

Tôi chỉ gật đầu:

– Cứ chờ đi.

Rồi tôi xin phép ra về.

2

Tối hôm ấy tôi ngồi ngoài hiên, kể chuyện cho vợ nghe. Bà mắng tôi:

– Ông biết giả thì sao không nói trước? Sao còn cầm?

Tôi nhấp ngụm trà, khẽ đáp:

– Tôi làm thuê cho người ta mà. Tôi nói ra chắc gì người ta tin.

– Thế rồi cái bình đó thật hay giả?

Tôi nhíu mày:

– Đúng là bình đời Thanh thật. Nhưng là loại sản xuất hàng loạt ở xưởng cuối triều. Giá trị lịch sử không cao. Còn hơn một tỷ thì… trẻ con cũng biết là trò bịp.

– Thế ông nói ngày mai đổi chủ là sao?

Tôi im lặng. Bà vợ chỉ thở dài:

– Ông lại dính vào chuyện rắc rối rồi.

Tôi không trả lời.

Tôi nhìn về phía thành phố. Ánh đèn nhấp nhô phía xa. Tôi nghĩ về con người. Có người nghèo nhưng tử tế. Có người giàu nhưng rỗng ruột. Có người cả đời chỉ muốn làm việc tử tế mà vẫn bị coi thường.

Tôi quyết định ngày mai quay lại.

3

9 giờ sáng, tôi trở lại cửa hàng như thường lệ. Không ai nói gì. Ông Hữu nhìn tôi như nhìn đồ rác:

– Chú đến làm gì?

– Tôi đến xem chuyện hôm qua.

Ông ta chỉ tay ra cổng:

– Biến.

Tôi chưa kịp nói gì thì một chiếc ô tô đen sang trọng dừng lại trước cửa hàng. Cửa xe mở ra. Một người phụ nữ hơn năm mươi tuổi bước xuống. Bà mặc vest đen, bước đi chậm rãi nhưng quyền lực toát ra từ từng cử chỉ.

Ông Hữu nhìn thấy thì xanh mặt:

– Chị Hà! Sao chị lại đến?

Tôi mỉm cười. Tôi biết người phụ nữ ấy.

Bà Hà chính là cổ đông lớn nhất của chuỗi cửa hàng cổ vật ở thành phố này. Chính bà từng mời tôi về làm cố vấn nhiều lần nhưng tôi từ chối. Tôi không muốn quay lại cái vòng xoáy thị phi của những cuộc mua bán nghìn tỷ và những cuộc tranh đoạt quyền lực.

Bà Hà bước vào, nhìn cái bình vỡ trên sàn. Rồi bà nhìn ông Hữu:

– Cậu bị điên à? Sao dám bày hàng giả ở đây?

Ông Hữu tái mét:

– Chị hiểu nhầm rồi! Em mua của một mối quen…

Bà Hà không nói. Bà quay sang tôi:

– Chú Toàn, nhờ chú giúp tôi giám định lại vụ việc nhé.

Tôi gật đầu. Tôi cúi xuống nhặt mảnh bình. Tôi nhìn cấu trúc xương đất, vết rạn men, phần miệng tráng. Rồi tôi nói:

– Bình đời Thanh thật. Nhưng thuộc loại sản xuất cuối triều. Giá trị thị trường khoảng 200–300 triệu là cùng. Nhưng…

Tôi nhặt phần đáy. Tôi chỉ vào một vết men:

– Đây là dấu tái chế hàng. Nó từng bị phục chế và tu bổ sai quy cách. Giá trị hiện tại không quá 50 triệu.

Mọi người sửng sốt.

Ông Hữu trợn mắt:

– Ông nói láo!

Bà Hà cười:

– Ông ta là người từng giám định hơn 3.000 hiện vật trong viện nghiên cứu quốc gia đấy.

Ông Hữu chết lặng.

Bà Hà nhìn ông ta:

– Cậu lừa khách hàng. Cậu bày hàng giả, thổi giá, thậm chí dùng đồ phục chế để lừa người mua. Tôi đã điều tra chuyện này lâu rồi.

Rồi bà đập hồ sơ xuống bàn.

– Từ giờ, hệ thống cửa hàng chính thức chấm dứt hợp tác với cậu. Mọi tài sản tồn kho sẽ bị thu giữ. Cậu có thể ra ngoài.

Người đứng nhìn xì xào. Ông Hữu ngồi sụp xuống ghế như người vừa bị rút sạch linh hồn.

Tôi chỉ nói:

– Tôi chỉ là người làm công. Nhưng anh nên nhớ, đừng coi thường ai.

Rồi tôi bước ra ngoài.

4

Ngày hôm sau, cửa hàng đổi biển hiệu. Bà Hà mời tôi làm giám sát, lương gấp 5 lần cũ. Tôi từ chối.

– Tôi chỉ muốn làm người trông hàng thôi. Quét dọn, mở cửa, pha trà. Thế là đủ.

Bà Hà cười:

– Chú làm gì mà sống giản dị quá vậy?

Tôi nhìn ra cửa:

– Vì tôi đã thấy quá nhiều người chết vì ham quyền, ham tiền. Còn tôi chỉ muốn giữ lại chút giá trị của nghề. Đồ cổ không làm giàu cho ai. Nó chỉ giúp ta nhớ rằng con người cũng chỉ là cát bụi.

Bà Hà thở dài:

– Chú nói đúng. Thế chú có đòi ông Hữu bồi thường gì không?

Tôi khoát tay:

– Điều tôi cần đã giải quyết rồi. Tôi chỉ cần người ta hiểu rằng, trên đời này không có ai đáng bị khinh rẻ cả.

Bà Hà gật đầu.

Tôi nhìn lại chiếc bình vỡ. Những mảnh sứ lấp lánh dưới nắng.

Mọi thứ có thể vỡ. Nhưng niềm tự trọng thì không.

Cái giá để bước qua sự coi thường của người khác luôn không phải là tiền.

Nó là bản lĩnh.

Related Posts

Our Privacy policy

https://dongnai24.com - © 2025 News