Làng Trầm Lục, huyện Hòa Sơn, lâu nay ai cũng biết nhà họ Nguyễn là dòng họ đông đúc, ăn nên làm ra, ruộng vườn rộng nhất vùng. Mỗi năm giỗ tổ, cả họ tụ về, dựng rạp lớn, đánh trống kéo nhị vui như hội.
Năm ấy – đúng ngày giỗ 49 năm của cụ Nguyễn Phúc Lược – mọi việc vẫn bình thường. Mâm cao cỗ đầy, con cháu rộn ràng. Nhưng vừa sang nửa đêm sau đám giỗ, chuyện lạ bắt đầu.
Ngày thứ nhất
Anh Nguyễn Phong, cháu đích tôn, trên đường chở vợ về nhà thì va phải xe tải. May mắn chỉ gãy tay, nhưng cũng khiến cả họ hoảng.
Người ta bảo:
“Giỗ tổ xong gặp nạn – không lành.”
Mọi người chỉ cười cho qua.
Ngày thứ hai
Đến lượt bà Nguyễn Thản, đang bê mâm cơm thì ngã sàn, chấn thương đầu, hôn mê một buổi mới tỉnh.
Hai ngày – hai người.
Không ai còn cười nổi.
Ngày thứ ba đến ngày thứ bảy
Lần lượt:
Chị Nguyễn Liên bị sập giàn phơi, rách da đầu.
Ông Nguyễn Chỉnh ngã từ thang xuống, bể hai răng.
Cậu Nguyễn Tâm bị rắn hổ mang bò vào giường, may phát hiện sớm.
Cháu nhỏ Thảo Nhi bỗng sốt mê man, gọi tên ai đó suốt.
Bác Nguyễn Nam thì đứt chân vào mảnh gốm, chảy máu không cầm được.
Cả làng xôn xao.
“Họ Nguyễn phạm mộ tổ rồi!”
Trưởng tộc ông Nguyễn Độn lập bàn thắp hương, cầu tổ mở lối, hóa giải tai ương. Nhưng hương vừa cháy nửa nén thì gió lùa tắt phụt, tro trong lư hương bốc nhẹ lên như bị ai đó thổi.
Người trong họ bắt đầu lạnh gáy.
Ngày thứ tám đến ngày thứ mười hai
Tai ương không dừng:
Bà Nguyễn Vạn đi qua mương trượt chân suýt chết đuối.
Cậu Nguyễn Sơn xe máy cháy giữa đường.
Đứa nhỏ Hoài Nam tự dưng hoảng loạn, bảo “ông đứng ngoài cửa sổ gọi con”.
Chú Nguyễn Cầu quýnh quáng, lửa bén mái nhà kho cháy đen cả góc.
Đến ngày thứ mười hai, đã đủ đúng 12 người trong họ gặp nạn, từ trẻ đến già, từ nhẹ đến nặng.
Cả họ sợ đến mức không ai dám ra khỏi nhà sau 9 giờ tối.
Người thứ 13 – điều không ngờ
Ngày thứ 13 sau đám giỗ, đúng 3 giờ sáng, con trai ông trưởng tộc – anh Nguyễn Đạo, người chưa gặp chuyện gì – bỗng la hét trong mơ, ngồi bật dậy, mặt trắng bệch:
“Bố ơi! Có người… gọi con ở giếng sau nhà. Ông ấy nói:
‘Đủ rồi… phải mở giếng ra mới yên…’”
Cả nhà tái mặt.
Ông Độn run tay cầm đèn pin và cùng người thân ra sau nhà. Ở đó có cái giếng cổ hơn 90 năm, từ thời cụ Phúc Lược, lâu lắm không dùng, miệng giếng đậy một tấm nắp bê tông đen bóng.
Ông Độn run giọng:
“Cụ bảo… phải mở giếng?”
Không ai dám gật, cũng chẳng ai dám lắc.
Cuối cùng, ông gọi mấy thanh niên trong họ lại dỡ tấm nắp.
Nắp vừa bật lên, mùi ẩm lạnh phả lên như từ dưới đất sâu trăm năm. Tia đèn pin quét xuống đáy giếng, ai cũng rợn người nhìn thấy một thứ mắc vào rêu xanh.
Họ dùng sào kéo lên…
Sự thật khiến cả họ khuỵu gối
Đó là một chiếc hộp gỗ sẫm màu, đã mục vỡ một góc, bên ngoài khắc dòng chữ:
“Trấn giữ – không được mở.”
Bên trong có:
Một cuốn gia phả cũ
Một mảnh vải trắng cháy dở
Một mảnh giấy viết bằng mực nho:
“Cụ Phúc Lược bị người nhà phản bội, ép phải tuẫn táng.
Linh còn ở giếng – ai động giếng mà quên cúng, họ sẽ chịu đủ 13 kiếp.”
Cả họ ngồi bệt xuống, xanh như tàu lá.
Thì ra… cái giếng không chỉ để lấy nước, mà là nơi phong ấn oan hồn của chính cụ tổ, và từ đời trước người trông giếng chịu trách nhiệm cúng hàng năm.
Nhưng mấy chục năm nay không ai nhắc, giếng bị lấp, phong ấn bị quên…
Tai ương ập tới là phải.
Sau lễ giải oán
Ngay trong ngày, thầy pháp miền trên được mời về làm lễ trấn giải 3 ngày liền. Lễ xong, ông chỉ nói:
“Cụ không trách con cháu…
Nhưng quên tổ, quên gốc… thì ắt phải trả phần của mình.”
Kể từ đó:
Giếng cổ được lập miếu nhỏ che lại
Ngày giỗ tổ họ Nguyễn không ai dám thiếu lễ giếng nữa
Người làng vẫn thì thầm:
Giếng phong ấn không chảy nước, nhưng chảy cả linh hồn lẫn nghiệp quả.
Và câu nói còn truyền đến tận bây giờ:
“Nhà nào quên gốc – đất sẽ nhắc.”